Lịch sử Binh pháp Tôn Tử

  • Cuốn"Tôn Tử binh pháp"do Tôn Vũ dâng lên Ngô vương Hạp Lư là cuốn binh pháp hoàn chỉnh, được viết vào năm 512 trước Công nguyên. Theo Sử ký và theo luận bàn về Tôn Tử của Tào Tháo, đều có ghi chép rõ ràng về 13 chương sách của Tôn Vũ. Từ đời nhà Đường, nhà Tống về sau, xuất hiện khá nhiều thuyết lầm lạc đối với cuốn Tôn Tử binh pháp. Bởi vì từ sau đời nhà Tuỳ cuốn binh pháp này đã bị thất truyền. Ở đời nhà Thanh người ta hiểu Tôn Tử binh pháp và Tôn Tẫn binh pháp là cùng một cuốn sách, Tôn VũTôn Tẫn cũng là một người, thậm chí còn cho rằng chỉ có Tôn Tẫn mà không có Tôn Vũ.
  • Năm 1957 khi Quách Hóa Nhược viết về Binh pháp Tôn Tử còn dẫn lời Đỗ Mục cho rằng: Binh pháp Tôn Tử có 82 bài và 9 quyển hình vẽ cộng với cuốn"Ngô Việt Xuân Thu"ghi chép các câu hỏi và trả lời của Tôn Vũ với vua Ngô. Truyền đến đời Tam Quốc, được Tào Tháo chọn lựa, gọt sửa, biên tập và chú thích, bỏ chỗ thừa, chép những phần tinh tuý và xếp thành 13 thiên, tức là cuốn"Tôn Tử"lưu truyền đến ngày nay. Và khẳng định Tào Tháo đã giữ lại những nội dung chủ yếu của"Tôn Tử", đó là một cống hiến không thể lu mờ được[3].
  • Tháng 4 năm 1972, hai cuốn sách Tôn Tử binh pháp (Tôn Vũ) và Tôn Tẫn binh pháp đồng thời tìm thấy trong một ngôi mộ cổ từ thời nhà Hán ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Tháng 7 năm 1978, cuốn Tôn Tử binh pháp cũng được tìm thấy trong một ngôi nhà ở Thanh Hải Trung Quốc, những ngộ nhận kéo dài về cuốn Tôn Tử binh pháp bấy giờ mới được làm rõ.[4]
  • Từ trước tháng 4 năm 1972, bản Tôn Tử binh pháp được lưu truyền cho là cổ nhất, đó là bản khắc đời Tống. Vào cuối đời nhà Hán đã được Tào Tháo chú giải, sau đó là Mạnh Thị nhà Lương, Lý Thuyên nhà Đường, Đỗ Mục, Trần Hạo, Giả Lâm, Mai Nhiêu Thần nhà Tống, Vương Triết, Hà Diên TíchTrương Dư. Trong đó bản chú giải của Tào Tháo là có giá trị hơn cả. Đến năm 1957, Thượng tướng Quách Hóa Nhược (Trung Quốc) đã viết lại Tôn Tử binh pháp theo thể văn ngày nay, dựa vào bản Tôn Tử trong Tứ bộ tùng san thời Gia Tĩnh nhà Minh. Những bản này có 13 bài (thiên): Bài 1 Kế, bài 2 Tác chiến, bài 3 Công mưu, bài 4 Quân hình, bài 5 Binh thế, bài 6 Hư thực, bài 7 Quân tranh, bài 8 Cửu biến, bài 9 Hành quân, bài 10 Địa hình, bài 11 cửu địa, bài 12 Hoả công, bài 13 Dụng gián. Sau khi dịch Quách Hóa Nhược chia thành 13 bài là: 1 Bàn về chiến tranh, 2 Tiến công chiến, 3 Tốc quyết chiến, 4 Vận động chiến, 5 Chủ động tính, 6 Linh hoạt tính, 7 Địa hình, 8 Sử dụng gián điệp, 9 Phán đoán tình huống, 10 Hoả công, 11 Quản lý giáo dục, 12 Quan hệ chỉ huy, 13 Tu dưỡng của tướng soái, rồi lại chia thành 108 đoạn.
  • Từ năm 1972 về sau (khi đã có bản"gốc"Binh pháp Tôn Tử đời Hán) có nhiều hình thức viết về cuốn sách này nhằm giúp cho người đọc dễ hiểu, nhưng vẫn dựa trên nguyên tắc bản dịch của Quách Hóa Nhược, rồi đối chiếu sửa theo bản đời Hán. Bản của Mã Nhất Phu viết theo 13 thiên của Tôn Vũ, mỗi thiên có 3 phần là bản gốc, diễn giải (dựa theo Quách Hóa Nhược) và lời bình. Bản của Đức Thành lại biên tập theo ba mục lớn; 1, Tôn Tử binh pháp dẫn nhập; 2, Tôn Tử binh pháp ứng dụng; 3, Tôn Tử binh pháp nghiên cứu
  • Kể từ bài viết của Tào Tháo đã có đến vài trăm người tham gia. Kể từ thế kỷ 7, Binh pháp Tôn Tử đã vào Nhật Bản do sứ thần đưa về, không lâu truyền đến Triều Tiên, đến thế kỷ 18 truyền vào châu Âu qua các quốc gia Pháp, Anh, Đức mà lan khắp toàn thế giới.[5]

Tác giả

Vào khoảng thế kỷ 12, một số học giả bắt đầu nghi ngờ về sự tồn tại lịch sử của Tôn Tử, chủ yếu với lý do ông không được nhắc đến trong tác phẩm kinh điển Tả truyện, trong đó đề cập đến hầu hết các nhân vật đáng chú ý thời kỳ Xuân Thu.[6] Cái tên"Tôn Võ"孫武) không xuất hiện trong bất kỳ văn bản nào trước Sử ký, [7] và đã bị nghi ngờ là một nhận thức mô tả được tạo ra có nghĩa là"chiến binh chạy trốn": tên họ"Tôn"được coi là thuật ngữ liên quan"kẻ chạy trốn"(Tấn 遜), Trong khi"Võ"là đức tính của Trung Quốc cổ xưa nghĩa là"võ nghệ, dũng cảm"(wǔ 武), tương ứng với vai trò của Tôn Tử với tư cách là người doppelgänger của người anh hùng trong câu chuyện về Ngũ Tử Tư.[7] Không giống như Tôn Võ, Tôn Bân dường như là một người thực sự là người có thẩm quyền thực sự trong các vấn đề quân sự, và có thể là nguồn cảm hứng cho việc tạo ra nhân vật lịch sử"Tôn Tử"thông qua một hình thức thần thoại hóa lịch sử (euhemerism).[7]

Khám phá tại lăng mộ Ngân Tước sơn

Năm 1972, các thẻ tre Ngân Tước sơn được phát hiện trong hai ngôi mộ triều đại Hán (206 TCN - 220 sau CN) gần thành phố Lâm Nghi thuộc tỉnh Sơn Đông.[6] Trong số nhiều tác phẩm thẻ tre có trong các ngôi mộ, đã được niêm phong từ 134 đến 118 TCN, tương ứng có hai văn bản riêng biệt, một văn bản được gán cho"Tôn Tử", tương ứng với văn bản nhận được và một văn bản khác được quy cho Tôn Bân, giải thích và mở rộng về Binh pháp Tôn Tử trước đó của Tôn Tử.[6] Tài liệu của văn bản Tôn Bân trùng lặp với phần lớn văn bản"Tôn Tử"và cả hai có thể là"một truyền thống trí tuệ duy nhất, liên tục phát triển được hợp nhất dưới cùng họ Tôn".[8] Phát hiện này cho thấy phần lớn sự nhầm lẫn trong lịch sử là do có hai văn bản có thể được gọi là"Binh pháp Tôn Tử", chứ không phải một.[6] Nội dung của văn bản trước đó là khoảng một phần ba các chương của Binh pháp Tôn Tử hiện đại, và văn bản của chúng rất khớp với nhau.[6] Hiện tại, người ta thường chấp nhận rằng phiên bản Binh pháp Tôn Tử trước đó đã được hoàn thành trong khoảng từ 500 đến 430 TCN.[6]